Văn mẫu lớp 12: Phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm 3 Dàn ý và 8 bài văn mẫu lớp 12

Văn mẫu lớp 12: Phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm mang đến 8 bài văn mẫu siêu hay kèm theo gợi ý cách viết chi tiết và sơ đồ tư duy.

Văn mẫu lớp 12: Phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm 3 Dàn ý và 8 bài văn mẫu lớp 12

Với 8 mẫu nét mới trong cảm nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm sẽ giúp cho các em ôn tập kiến thức một cách hiệu quả, định hướng đúng trong quá trình ôn tập. Hi vọng tài liệu này sẽ là những người bạn thân thiết, cùng bạn đồng hành trên hành trình chinh phục mục tiêu 9+ môn Ngữ văn. Bên cạnh đó các em xem rất nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12.

Dàn ý nét mới trong cảm nhận về Đất nước

I. Mở bài

– Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm.

– Được trích trong trường ca “Mặt đường khát vọng”, với “Đất nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước.

II. Thân bài

1. Thời điểm ra đời của Đất nước

– Đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời (Khi ta lớn lên/Đất nước đã có rồi).

– Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên cho “cái kèo”, “cái cột” rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình.

=> Nguyễn Khoa Điềm đang cố gắng xóa mờ đi cái khái niệm thời gian lịch sử cụ thể, từ đó gợi lên một hình tượng Đất Nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời.

2. Phạm vi tồn tại của Đất nước

– Đất nước không chỉ là không gian sống của mỗi con người mà Đất Nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân: “Đất Nước là máu xương của mình”, “Trong anh và em hôm nay/Đều có một phần đất nước”.

– Đất nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ.

=> Đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà Đất nước mang một vẻ gần gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay.

3. Sự lớn lên của Đất nước

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc” => Chính quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho Đất nước trưởng thành vững chãi hơn.

4. Những định nghĩa độc đáo về Đất nước

– Đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa.

– Đất nước chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung.

5. Tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”

– Nhân dân đã hóa thân làm ra Đất Nước: Hình ảnh “những người vợ nhớ chồng”, “cặp vợ chồng yêu nhau”, “người học trò nghèo” và “những người dân nào”.

– Nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ Đất Nước “Nhiều người đã trở thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ”.

– Nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của Đất Nước, lịch sử Đất Nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối tiếp của các thế hệ nhân dân.

– Nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, nhiều giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời.

III. Kết bài

– Điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng “Đất Nước của dân”, do dân và vì dân.

– Giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước học sinh giỏi – Mẫu 1

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã từng tâm sự rằng: “Tôi cố gắng thể hiện hình ảnh Đất Nước giản dị, gần gũi nhất. Đó là cách để di vào lòng người, đồng thời cũng là cách để tôi đi con đường riêng của tôi, không lặp lại người khác”. Lời tự bạch của nhà thơ là một kim chỉ nam giúp bạn đọc có thêm một cách để tìm hiểu đoạn trích “Đất nước” độc đáo này, đó là khám phá những đóng góp mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm, đặc biệt là trong 9 câu đầu của đoạn trích.

“Đóng góp mới mẻ” là những đóng góp riêng, độc đáo, là sản phẩm của quá trình sáng tạo mang đậm dấu ấn chủ quan, dấu ấn cá nhân của tác giả. Vì yêu cầu của nghệ thuật là luôn phải mới mẻ, yêu cầu phẩm chất nghệ sĩ là phải có giọng riêng, nói như Tuốc-ghê-nhép là phải có “thần sắc riêng”, nói như Hoài Thanh là “khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có”

Trường ca “Mặt đường khát vọng” được Nguyễn Khoa Điềm hoàn thành ở chiến khu Bình-Trị-Thiên năm 1971, in lần đầu năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm bị chiếm miền Nam, về non sông đất nước, về sứ mệnh của thế hệ mình, xuống đường đấu tranh hòa nhịp với cuộc chiến đấu chống đế quốc xâm lược. Đoạn trích “Đất Nước” là một trong những đoạn thơ hay về đề tài đất nước trong thơ Việt Nam hiện đại. Đặc biệt 9 câu thơ đầu, đó là cảm xúc nồng nàn, tư duy sâu lắng về chiều dài đất nước. Qua đó đoạn thơ góp phần là trọn vẹn thêm những cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Về phương diện nội dung, nói về nguồn cội đất nước, khát khao đi tìm câu trả lời “Đất nước có từ bao giờ” là nỗi khát khao không riêng gì Nguyễn Khoa Điềm. Văn học dân gian lý giải cội nguồn đất nước qua những câu chuyện cổ tích, truyền thuyết đẫm màu huyền thoại như Lạc Long Quân và Âu Cơ đẻ ra bọc trăm trứng, đó là sự tích quả bầu mẹ giải thích sự ra đời của 54 dân tộc anh em nước Việt. Thơ ca trung đại lại khẳng định cội nguồn đất nước gắn với thiên thư tối thượng ở “Nam quốc sơn hà”, ở “Bình ngô đại cáo” gắn với tên các vương triều hùng mạnh Triệu, Đinh, Lý, Trần. Cội nguồn đất nước ta đẹp cao cả thiêng liêng nhưng xa xôi tựa sương khói thời gian. Còn cội nguồn đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm lại bình dị, gần gũi, quen thuộc đến thân thương:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồiĐất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” gợi nỗi xa xăm trong chiều dài thời gian lịch sử, gợi cái gần gũi vô biên vì nó gần với kí ức ấu thơ của mỗi con người vì tuổi thơ ai chẳng một lần nghe cổ tích và câu chuyện nào chẳng bắt đầu từ “ngày xửa ngày xưa”. Ngay từ những câu đầu Nguyễn Khoa Điềm đưa cội nguồn đất nước về con người ngay từ thuở nằm nôi:

“Sơ sinh lòng mẹ đưa nôiHồn thiêng đất nước vẫn ngồi bên con”

Cội nguồn đất nước trong cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm còn gắn với “miếng trầu bà ăn”, “cây tre dân mình trồng mà đánh giặc”, “tóc mẹ bới sau đầu”, “muối mặn gừng cay” trong tình cha mẹ, “cái kèo cái cột thành tên”, “hạt gạo hai sương giần sàng, xay giã, trong những mĩ tục thuần phong, tục đặt tên, tục ăn trầu, bới tóc. Những hình ảnh hiện ra quen thuộc như từ trang đời bước vào trang thơ. Bước ra từ ca dao cổ tích, miếng trầu gợi sự tích trầu cau thắm nghĩa anh em, đượm tình chồng vợ, về cậu bé lên ba làng Gióng đánh giặc Ân, “gừng cay muối mặn” xuất hiện trong lời nhắc nhở về lẽ thủy chung:

“Tay nâng chén muối đĩa gừngGừng cay muối mặn xin đừng quen nhau”

Hạt gạo nhắc nhở ta về câu ca dao:

“Cày đồng đang buổi ban trưaMồ hôi thánh thót như mưa ruộng càyAi ơi bưng bát cơm đầyDẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần”

Tất cả tập trung làm rõ một cội nguồn đất nước vừa thân thương vừa gần gũi, vừa cao cả thiêng liêng vừa mộc mạc vừa bay bổng mĩ lệ, vừa quen thuộc vừa mới lạ. Đó là sắc diện riêng của đất nước mà chỉ Nguyễn Khoa Điềm mới nhận ra.

Thơ hay không chỉ nằm ở nội dung mà còn thể hiện ở hình thức biểu hiện của nó. Sự mới mẻ ở hình thức trong đoạn trích nằm ở thể thơ tự do, câu thơ ngắn dài linh hoạt, nhịp nhanh, chậm phong phú thể hiện cảm xúc suy tư, sôi nổi. Ngôn ngữ thơ giản dị, tự nhiên gần với khẩu ngữ nên rất tự nhiên sống động. Thơ tự do, nhiều từ, nhiều ngữ nhưng không hề khô khan bởi Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo sử dụng một loạt điệp từ, điệp hình ảnh, điệp cấu trúc góp phần làm giọng thơ thêm nhiệt hứng, câu thơ thêm hình ảnh. Thêm vào đó còn là tài năng sử dụng chất liệu dân gian rất riêng, rất độc đáo. Không trích dẫn nguyên văn ca dao, tục ngữ, dân ca, không kể lể dài dòng các phong tục tập quán, các truyện cổ tích, truyền thuyết, tác giả chỉ bắt lấy rất nhạy cái hồn của chất liệu dân gian để gợi liên tưởng, gợi suy ngẫm cho độc giả, tạo ra cảm giác vừa quen vừa lạ.

Như vậy, cái mới mẻ của Nguyễn Khoa Điềm đã thành công trong việc tạo ra cái mới trong cảm xúc, tạo ra cái mới trong hình tượng. Điều này làm nên bài học muôn thuở cho người nghệ sĩ về phong cách, về sức sáng tạo. Đó cũng chính là quy luật kế thừa và cách tân tồn tại muôn đời trong dòng chảy văn học, là đặc trưng của nền văn học Việt Nam và cả nền văn học thế giới. Qua đây, bạn đọc cũng tiếp thu được kinh nghiệm khi đọc một tác phẩm văn học, đó là phải khám phá được nét riêng, được sự mới mẻ khác biệt trong phong cách mỗi tác giả để hiểu được cho trọn cái tư tưởng mà người nghệ sĩ muốn gửi gắm.

Tsekhop đã khẳng định rằng: “Nếu một tác giả không có lối đi riêng của mình thì người đó sẽ không bao giờ trở thành nhà văn được”. Quả đúng thế, nếu Đất Nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm không có điều gì mới mẻ thì chắc chắn tên tuổi của nhà thơ và tác phẩm sẽ không còn chỗ đứng quan trọng trong trái tim người đọc muôn thời.

Phân tích nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 2

Đâu phải chỉ đến Nguyễn Khoa Điềm, Đất nước và con người mới xuất hiện trong thơ ca Việt. Trước đó là đất nước đã đi vào mỗi con người qua từng lời ru, tiếng hát của khúc hát ru của bà của mẹ, qua những vẫn thơ của Nguyễn Đình Thi một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh, một đất nước rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm… Nhưng có lẽ phải đến Nguyễn Khoa Điềm mới hiện lên cái nhìn toàn vẹn, đi từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân.

Khác với nhiều tác giả đàn anh trước hay cả một số cây bút cùng thế hệ bản thân họ khi viết về Đất nước luôn tự tạo ra một khoảng cách, xây một “tòa thành vĩ đại” để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc với thái độ trân trọng nên hay dùng những hình ảnh kì vĩ mĩ lệ mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước. Nhưng đến với phần mở đầu đoạn thơ trích được Nguyễn Khoa Điềm người ta ngạc nhiên đi đến bất ngờ để nhận ra chưa bao giờ đất nước xuất hiện trước mắt lại gẫn gũi, bình dị chỉ trong một khoảng chạm tay đến thế. Mở đầu đoạn trích Đất nước là giọng thơ nhẹ nhàng , thủ thỉ như lời tâm tình đưa ta trở về cội nguồn đất nước.

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Đất nước đâu phải toà lâu đài kỳ vĩ tráng lệ, nguy nga không ai có thể chạm tới, nó cũng chẳng phải một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất là gì? Đó là khi còn tấm bé trong vòng tay của bà của mẹ những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể đã đưa đất nước gắn với sự trưởng thành của một đứa trẻ hết sức tự nhiên, mật thiết. Trong văn hoá sống, sinh hoạt hàng ngày nơi miếng trầu của bà, hay cây tre trước ngõ… Một Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và gắn bó sắt son tình nghĩa anh em.

Lịch sử lâu đời của Đất nước không phải cắt nghĩa bằng sự nối tiếp các triều đại “Từ Triệu Đinh Lý Trần bao đời gây nền độc lập” (Bình Ngô đại cáo) hay các sự kiện lịch sử mà bắt đầu từ những câu chuyện kể tuổi thơ, gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng,… Nhưng để giữ lấy bình yên thì đất nước ấy cũng ” đứng lên” chiến đấu vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre chính là một vẻ đẹp tinh thần Đất nước, thấm đẫm cội nguồn lịch sử dân tộc. Nền văn minh dân tộc cùng những phong tục tập quán lâu đời cũng được lưu giữ trong từng dòng “Đất Nước”.

Một nét mới đặc sắc của tác giả chính là giọng thơ suy tư. Đoạn thơ mở đầu được xem như câu trả lời cho từng câu hỏi ẩn hiện xuyên suốt mạch thơ: Đất nước có từ bao giờ? Đất nước trưởng thành ra sao?… Cách nhìn nhận về Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được xây dựng tương tự như hành trình cuộc đời của một con người.

Tiếp nối cho mạch thơ chính luận trữ tình bằng câu hỏi: Đất nước là gì? Đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử không gian và thời gian. Bản thân Nguyễn Đình Thi xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ nói về hình tượng đất nước đâu phải dễ dàng. Có lẽ vì thế tác giả chia tách ý niệm đất nước thành 2 yếu tố đất và nước để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo: Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm / Đất Nước là nơi hai ta hò hẹn / Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…

Đất nước – không gian kỳ diệu của tình yêu, của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới : Những ai đã khuất. Những ai bây giờ. Yêu nhau và sinh con đẻ cái. Gánh vác phần người đi trước để lại. Dặn dò con cháu chuyện mai sau…

Chính không gian tình yêu ấy, theo dòng suy cảm tác giả mở rộng các chiều kích không gian, để hướng tới cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và chiều rộng địa lí, chiều sâu văn hoá-phong tục dân tộc… Chính điều đó khiến mạch thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của chính mình với đất nước :

Em ơi, Đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…

Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ vẫn rất mạnh.

Với cách dùng cụm từ “em ơi em”, thay vì lời kêu gọi, giáo huấn thì ngược lại cách xưng hô khiến ý thơ chuyển hóa linh hoạt, nhẹ nhàng thành một lời dặn dò, tâm sự. Ta phải hiểu được sự xuất sắc và cái tài Nguyễn Khoa Điềm chính là tứ thơ rất tâm lí, đánh động vào tim người đọc, khi con tim lên tiếng thì mọi điều chỉ là lúc ta cần làm theo lời trái tim mà thôi.

Nét mới trong cách nhìn nhận đặc sắc nhất làm nên làm nên sự khác biệt của “Đất Nước” so với các tác phẩm cùng đề tài là quan niệm “Đất Nước của Nhân dân”. Như cách mà nhà thơ Chế Lan Viên viết “Tổ quốc tôi bao giờ đẹp thế này chăng?” điểm nhìn Đất nước xuất phát qua bề dày lịch sử oai hùng.

“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặcNguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành vănKhi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa BắcHưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng”

Còn với Nguyễn Khoa Điềm tư tưởng cốt lõi Đất nước của nhân dân ngay cả ở phần sau việc triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện : địa lí, văn hoá, phong tục…muôn vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh:

Đọc thêm:  Thủ khoa tốt nghiệp từng bỏ học ba năm

Có biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước…

Nguyễn Khoa Điềm không nhắc đến những tên tuổi vang dội hay những thắng lợi lịch sử tất cả mạch thơ xuyên suốt ấy là những con người, nhân dân bé nhỏ “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng lại là những người “làm ra Đất Nước”.

Tất cả những vẻ đẹp của Đất nước được tác giả khai thác ở đoạn cuối trên mọi phương diện từ văn hóa, lịch sử, địa lí đó là những tinh hoa của dân tộc với bí bao công sức, khát vọng của nhân dân, từ nhân dân sinh sôi, phát triển. Ông nhấn mạnh lớp người vô danh “đã sống và chết/ Giản dị và bình tâm”. Cuối cùng, cốt lõi của cả đoạn trích được tác giả một lần nữa nếu rõ và khẳng định

“Để Đất Nước này là Đất Nước của Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Điểm nhìn của sự giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra luôn được tô đậm và trở thành cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 3

Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ. Từ xa xưa, ta bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, trong thơ Chế Lan Viên, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng lòa”, đất nước của những mùa thu xưa và nay trong thơ Nguyễn Đình Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm ta lại gặp hình ảnh “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” ở toàn bộ chương Đất nước của bản trường ca này.

Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lý sâu xa, vừa đem đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn , thương hơn đất nước mình.

Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn nhân dân. Hàng triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và xây dựng đất nước.

Có biết bao người con gái, con trai,Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chết.Giản dị và bình tâm,Không ai nhớ mặt đặt tên,Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.

Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dần ta đã chiến đấu, lao động tạo nên bộ mặt lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với thiên nhiên, lịch sử…

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaĐất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.

Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thân thiết với tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:

Đất là nơi anh đến trường,Nước là nơi em tắm,Đất Nước là nơi ta hò hẹn,Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:

Trong anh và em hôm nay.Đều có một phần Đất Nước,Khi hai đứa cầm tay,Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.

Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến ngày xưa – đất nước là của nhà vua.

Nam quốc Sơn hà nam đế cư.Tiệt nhiên định phận tại thiên thư

(Lí Thường Kiệt)

Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm cũng có điểm khác với quan niệm của nhà yêu nước ở đầu thế kỉ XX – đất nước là của những bậc anh hùng làm nên lịch sử:

Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang .Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.Quang Trung để từ khi độc lập,Khí anh hùng đầy lấp giang Sơn.

(Phan Bội Châu)

Về hình thức biểu hiện đất nước, bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm cũng có mới mẻ, sáng tạo. Thơ ca cổ điển thường dùng tiếng cuộc kêu tượng trưng cho lòng nhớ thương nước nhà:

Nhớ nước đau lòng con cuốc cuốc

(Bà Huyện Thanh Quan)

Có phải tiếc xuân mà đứng gọi,Hay là nhớ nước vẫn nằm mơ.

(Nguyễn Khuyến)

Chịu ảnh hưởng của văn học phương Tây vào những năm 20 của thế kỉ này, Tản Đà đã dùng hình ảnh bức dư đồ để tượng trưng cho đất nước:

Nọ bức dư đồ thư đứng cui,Sông sông, núi núi khéo bia cười

Khi Cách mạng tháng Tám thành công, Xuân Diệu viết Ngọn quốc kì ca ngợi đất nước:

Việt Nam! Việt Nam! Cờ đỏ sao vàng!Những ngực nén hít thở “Ngày độc lập”!

Riêng Nguyễn Khoa Điềm sử dụng những hình ảnh trong ca dao, tục ngữ truyền thuyết muôn màu, muôn vẻ, trải dài trong không gian, xuyên suốt cả thời gian, lắng đọng trong tâm tưởng ta qua những liên tưởng kì thú để tượng trưng cho đất nước. Trước hết, đất nước đã có từ lâu đời, qua Sự tích trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng.

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn,Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc.

Qua những mỹ tục thể hiện lối sống giàu tình nặng nghĩa:

Tóc mẹ thì bới sau đầu,Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Qua đời sống lao động thật vất vả để lo cái ở, để lo cái ăn:

Cái kèo, cái cột thành tên,Hạt gạo phải một nắng hai sương xay. giã, giần, sàng.

Đất nước được coi là phần hay nhất của trường ca Mặt đường khát vọng . Nó tạo nên những tình cảm tha thiết sâu lắng, những ngân rung trong lòng người đọc. Bài thơ còn tạo nên một tượng đài về Tổ quốc Việt Nam bằng thơ, tượng đài ấy vĩnh hằng qua thời gian, năm tháng và trong lòng mỗi người dân Việt Nam yêu đất nước mình.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 4

Đất nước luôn là tiếng gọi thiêng liêng muôn thuở, muôn nơi và của triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta qua những lời ru ngọt ngào êm dịu, qua những làn điệu dân ca mượt mà và những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta bắt gặp một hình tượng đất nước đau thương nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ Nguyễn Đình Thi đồng thời cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ Hoàng Cầm.

Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm, ta bắt gặp một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau về một đất nước của nhân dân. Tư tưởng ấy đã quy tụ mọi cách nhìn và cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước. Thông qua những vần thơ kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mỹ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích là giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn đất nước:

“Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Đất nước trước hết không phải là một khái niệm trừu tượng mà là những gì rất gần gũi, thân thiết ở ngay trong cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất nước hiện hình trong câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mẹ kể, trong miếng trầu của bà, cây tre trước ngõ… gợi lên một đất nước Việt Nam bao dung hiền hậu, thủy chung và sắt son tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán ngàn đời, minh chứng của một dân tộc giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn. Một chân lí tự nhiên: Gừng tất nhiên là cay, muối tất nhiên sẽ mặn. Tình yêu cha mẹ mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. Hình ảnh thơ khiến ta rưng rưng nhớ về một lời nhắc nhở thiết tha về tình nghĩa của một ai đó hôm nào:

“Tay bưng dĩa muối chén gừngGừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”

Đất nước còn là thành quả của công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa:

“Cái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó”

Ở đây Đất nước không còn là một khái niệm trừu tượng nữa mà cụ thể, quen thuộc và giản dị biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với quan niệm “Đất nước của nhân dân”.

Vẫn bằng lời trò chuyện tâm tình với mỗi nhân vật đối thoại tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải khái niệm đất nước theo kiểu riêng của mình:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”

Đất nước không chỉ được cảm nhận bởi không gian địa lý mênh mông từ rừng đến bể mà còn được cảm nhận bởi không gian sinh hoạt bình thường của mỗi người, không gian của tình yêu đôi lứa, không gian của nỗi nhớ thương. Ý niệm về đất nước được gợi ra từ việc chia tách hai yếu tố hợp thành là “đất” và “nước” với những liên tưởng gợi ra từ đó. Sử dụng lối chiết tự mà vẫn không ngô nghê, mà vẫn thật duyên dáng và ý nhị, có thể gợi ra cho thấy một quan niệm mang những đặc điểm riêng của dân tộc ta về khái niệm đất nước, mà tư duy thơ có thể tách ra, nhấn mạnh.

“Đất” mở ra cho anh một chân trời kiến thức, “nước” gột rửa tâm hồn em trong sáng dịu hiền. Cùng với thời gian lớn lên đất nước trở thành nơi anh và em hò hẹn. Không những thế, đất nước còn là người bạn chia sẻ những tình cảm nhớ mong của những người đang yêu. “Đất” và “nước” tách rời khi “anh” và “em” đang là hai cá thể, còn hòa hợp khi “anh” và “em” kết lại thành “ta”. Chiếc khăn – biểu tượng của nỗi nhớ thương – đã từng làm bao trái tim tuổi trẻ bâng khuâng: “Khăn thương nhớ ai/Khăn rơi xuống đất …” – một lần nữa lại khiến lòng người xúc động, bồi hồi trước tình cảm chân thành của những tâm hồn yêu thương say đắm.

Đất nước còn là nơi trở về của những tâm hồn thiết tha với quê hương. Hình ảnh “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển khơi” mang phong cách dân ca miền Trung, thẫm đẫm lòng yêu quê hương cả tác giả. Đất nước mình bình dị, quen thuộc nhưng đôi khi cũng lớn rộng, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình Việt Nam là như thế, lúc nào cũng hướng về quê hương, hướng về cội nguồn.

Đất nước trường tồn trong không gian và thời gian: “Thời gian đằng đẵng/Không gian mênh mông” để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua bao thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ. Nhắc lại Lạc Long Quân và Âu Cơ, nhắc đến ngày giỗ tổ, Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc nhở mọi người nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Nhắc đến chuyện xưa ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở:

“Những ai đã khuấtNhững ai bây giờYêu nhau và sinh con đẻ cáiGánh vác phần người đi trước để lạiDặn dò con cháu chuyện mai sau”

Cảm hứng thơ của tác giả có vẻ phóng túng, tự do nhưng thật ra đây là một hệ thống lập luận khá rõ mà chủ yếu là tác giả thể hiện đất nước trong ba phương diện: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lý, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử, trong bề dày của văn hóa – phong tục, lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được thể hiện gắn bó thống nhất và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng đất nước của nhân dân vẫn là tư tưởng cốt lõi, nó như một hệ quy chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

Và cụ thể hơn nữa, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong máu thịt của mỗi chúng ta:

“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần đất nước”

Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương của mỗi con người, vì thế sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mỗi con người mà là của cả đất nước. Mỗi con người đều thừa hưởng ít nhiều di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên đất nước muôn đời.

Từ những quan niệm như vậy về đất nước, phần sau của tác phẩm tác giả tập trung làm nổi bật tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo ra Đất nước.

Tư tưởng đó đã dẫn đến một cái nhìn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, những núi Bút non Nghiên… không còn là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi: “Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu”, “Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái”, “Người học trò thắng cảnh”… Ở đây cảnh vật thiên nhiên qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước, đã đặt tên, đã ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể, nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta”

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại, không nói đến những anh hùng được sử sách lưu danh mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình thường, bình dị. Đất nước trước hết là của nhân dân, của những con người vô danh:

“Họ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất nước”

Họ lao động và chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ và truyền lại cho các thế hệ mai sau các giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất của đất nước từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên xã, tên làng đến những truyện thần thoại, câu tục ngữ, ca dao. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của cả bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và độc đáo:

“Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Một định nghĩa giản dị, bất ngờ về Đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn thể hiện những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc: Thật đắm say trong tình yêu, biết quý trọng tình nghĩa và cũng thật quyết liệt trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm.

Những câu thơ khép lại tác phẩm ca ngợi vẻ đẹp của cảnh sắc quê hương với một tâm hồn lạc quan phơi phới. Tất cả ào ạt tuôn chảy trong tâm trí người đọc những tí tách reo vui…

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm thành công cho mảng thơ viết về đất nước. Từ những cảm nhận mang tính gần gũi, quen thuộc, đất nước không còn xa lạ, trừu tượng mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, ta không chỉ tìm về cội nguồn dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần dân tộc trong mỗi con người Việt Nam trong mọi thời đại.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 5

Có một lần trong buổi gặp trực tiếp với dân chúng Nga, tổng thống Nga Vladimir Vladimirovich Putin đã đọc những vần thơ hết sức cảm động và thiết tha của nhà thơ làng quê Sergei Aleksandrovich Yesenin để diễn tả lòng yêu nước sâu sắc của mình:

“Ôi nếu như thiên thần lên tiếng gọiBỏ nước Nga lên sống ở thiên đường!Tôi sẽ đáp: Thiên đường xin để đấyCho tôi xin ở cùng Tổ quốc yêu thương”

Tình cảm đối với đất nước, đối với nhân dân cũng là một trong những nguồn cảm hứng bất tận trong thơ ca Việt Nam, đặc biệt là trong các sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm. Cũng với những tình cảm dành cho tổ quốc, con người Việt Nam, nhưng ta lại nhận thấy rằng trong thơ ông nổi lên những nét mới lạ và cảm nhận riêng rất độc đáo. Trong Trường ca “Mặt đường khát vọng” với đoạn thơ “Đất Nước”, Nguyễn Khoa Điềm đã đưa chúng ta đến với những khám phá cực kỳ mới mẻ về đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại đồng thời bộc lộ tình cảm thắm thiết sâu nặng của mình đối với đất nước, nhân dân.

Đọc thêm:  Top ứng dụng hẹn hò cho người độc thân

Đất nước là một trong những nguồn cảm hứng chung của nhiều nhà thơ nhà văn, ta đã từng biết đến một đất nước thon thả giọt đàn bầu trong sáng tác của nhà thơ Tạ Hữu Yên, một đất nước hình tia chớp trong thơ Trần Mạnh Hảo, hoặc cũng có thể là một đất nước nhìn từ xa, nhìn từ biển của Nguyễn Việt Chiến… Còn với riêng Nguyễn Khoa Điềm, ông lại có những cảm nhận mới khi tập trung vào quá trình hình thành, lớn lên và tồn tại của đất nước. Có thể nói Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đầu tiên và cũng là nhà thơ duy nhất trầm tư suy nghĩ và nói về thời điểm ra đời của đất nước, với những dòng thơ mở đầu đầy suy tư:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồiĐất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kểĐất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Từ “ta” ở đây vừa là lời tự xưng của nhà thơ, vừa có ý nghĩa đại diện cho cả một thế hệ trong đó có cả “anh” và “em” cho nên trong quan niệm của tác giả đất nước có trước khi mỗi con người, mỗi thế hệ lớn lên, đó là một đất nước có từ ngàn xưa từ rất lâu đời. Cũng trong mạch cảm hứng ấy tác giả còn nhận ra rằng đất nước bắt đầu từ “miếng trầu bây giờ bà ăn”, khéo léo gợi lại một trong những tập tục nổi tiếng của người Việt xưa ấy là tục ăn trầu nhuộm răng, thờ cúng, lễ lộc bằng trầu cau. Cũng có nghĩa là một đất nước được hình thành từ trước khi dân ta biết đến tục ăn trầu, khi dân ta biết yêu nhau, gắn bó cùng nhau, miếng trầu bà ăn cũng có đến hàng nghìn năm tuổi, cùng tuổi với đất nước.

Cũng trong mạch cảm xúc về thời điểm ra đời của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định:

“Tóc mẹ thì bới sau đầuCha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo, cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó…”

Nguyễn Khoa Điềm lại tiếp tục khéo léo gợi lại những tập tục đặc trưng của dân tộc ta, phụ nữ Việt Nam xưa vẫn ưa thích kiểu búi tóc thành búi thấp sau gáy rồi dùng trâm, dùng lược cố định. Lời thơ cũng làm sống lại cái tình cảm vợ chồng thủy chung son sắt của cha, của mẹ cũng như của biết bao đôi lứa trên đất nước này, đó là tình cảm sâu sắc biểu trưng bằng hình ảnh “gừng cay muối mặn” xuất phát trong ca dao Việt Nam xưa. Rồi “Cái kèo cái cột thành tên” lại là một tập tục độc đáo tâm linh của người Việt mà ở đó, họ đặt cho con cái mình những cái tên sao cho thật xấu, thật tầm thường, dung dị mà gần gũi, phòng tránh cho khỏi bị ma quỷ, thần thánh để ý mà bắt mất con, từ đó ta cũng thấy được tình cảm thiêng liêng sâu sắc của cha mẹ dành cho những đứa con bé bỏng, những con người sẽ xây dựng đất nước mai sau. Câu thơ: “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” đã thể hiện sự thấu hiểu sâu sắc của tác giả về đời sống vật chất của người Việt, gợi nhắc về nền văn minh lúa nước đã gắn bó với con người từ thuở các vua Hùng dựng nước, để làm ra hạt gạo nhỏ bé con người đã phải bỏ ra biết bao công sức, mới được thứ gạo sạch thơm trắng ngần. Và cũng tương tự như miếng trầu, hạt thóc, hạt lúa cũng có cùng tuổi với đất nước, sánh vai đi cùng với đất nước, làm nên đất nước và con người Việt Nam đã hàng ngàn năm nay. Đất nước có từ khi nhân dân ta biết đến tục ăn trầu, phụ nữ ta biết búi tóc sau đầu, con người biết yêu thương nhau thủy chung tình nghĩa, biết đặt tên con là “cái kèo”, “cái cột”, rồi biết làm ra hạt gạo để nuôi sống chính mình. Tất cả những định nghĩa trên đều cho thấy một điều rõ ràng Nguyễn Khoa Điềm đang cố gắng xóa mờ đi cái khái niệm thời gian lịch sử cụ thể, từ đó gợi lên một hình tượng đất nước có từ rất xa xưa, từ rất lâu đời.

Không chỉ dừng lại ở những phát hiện về thời gian ra đời của đất nước mà Nguyễn Khoa Điềm còn có những cảm nhận tinh tế về phạm vi tồn tại của đất nước, điều này được nhà thơ khẳng định một cách trực tiếp trong dòng thơ thứ hai của tác phẩm “Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”. Lời thơ đã gợi ra một không khí đất nước trong những câu chuyện cổ đặc biệt là truyện cổ tích, những câu chuyện vốn rất thân quen và gần gũi đối với mỗi con người ngay từ thuở ấu thơ, từ trong những lời kể thiết tha, ngọt ngào của mẹ. Có thể thấy rằng cách cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm khác hẳn cách cảm nhận về đất nước của Lý Thường Kiệt trong Nam Quốc Sơn Hà là đất nước tồn tại trong sách trời, rất thiêng liêng rất cao cả, rất thần bí. Với ông đất nước tồn tại và gắn bó mật thiết với con người từ trong những gì gần gũi thân thuộc nhất, câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn, hạt gạo ta trồng, từ trong những cái tên của con người, đất nước không phải là khái niệm mơ hồ, bí ẩn mà nó mang một vẻ gần gũi, thiết tha hòa mình với con người, với cuộc sống của nhân dân ta từ bao đời nay. Điều đó càng được tác giả khẳng định trong những câu thơ sau:

“Trong anh và em hôm nayĐều có một phần Đất NướcKhi hai đứa cầm tayĐất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắmKhi chúng ta cầm tay mọi ngườiĐất nước vẹn tròn, to lớn”

Đất nước có trong anh, trong em, trong mỗi người nên khi chúng ta yêu thương nhau đất nước sẽ trở nên hài hòa nồng thắm, còn khi chúng ta đồng lòng chung sức thì đất nước sẽ vẹn toàn to lớn. Trong cảm nhận của tác giả đất nước không chỉ là bầu không gian sống của mỗi con người mà đất nước còn tồn tại hiện diện ngay trong bản thân của mỗi cá nhân “Đất Nước là máu xương của mình”.

Nguyễn Khoa Điềm nói về quá trình lớn lên của đất nước chỉ trong một câu thơ rất sâu sắc “Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”. Đối với tác giả chính quá trình đấu tranh bền bỉ, kiên cường đấu tranh chống giặc ngoại xâm đã giúp cho đất nước trưởng thành vững chãi hơn. Câu thơ gợi nhớ lại truyền thuyết Thánh Gióng cổ xưa, người anh hùng nhổ tre làm vũ khí diệt giặc, và trong những lần kháng chiến chống giặc ngoại xâm sau này, tre xanh luôn có những vai trò nhất định trong kháng chiến, trở thành biểu tượng cho một dân tộc, một đất nước kiêu hùng, mạnh mẽ quật cường như loài tre xanh, với sức sống tiềm tàng mãnh liệt.

Bên cạnh việc khám phá quá trình ra đời, hình thành và tồn tại của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm còn có những định nghĩa sâu sắc, độc đáo về đất nước. Thứ nhất, đất nước là sự thống nhất của ba phương diện chiều rộng không gian địa lý, bề dày thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầmĐất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”Thời gian đằng đẵngKhông gian mênh môngĐất Nước là nơi dân mình đoàn tụĐất là nơi Chim vềNước là nơi Rồng ởLạc Long Quân và Âu Cơ”

Đất nước với chiều rộng không gian địa lý kéo dài từ không gian sinh hoạt cá nhân “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, đến những không gian sinh hoạt cộng đồng rộng lớn như “nơi dân mình đoàn tụ”, rồi từ không gian của thực tại đến không gian của truyền thuyết thần thoại như “nơi Chim về”, “nơi Rồng ở”… Chính những không gian này đã gợi lên tầm vóc không gian địa lý của đất nước. Gắn với những không gian ấy, cùng những ca dao, truyền thuyết, thần thoại về Lạc Long Quân và Âu Cơ thì tác giả đã khéo léo gợi ra thời gian lịch sử của đất nước, kéo dài suốt từ thời Lạc Long Quân – Âu Cơ dựng nước cho đến tận “anh với em hôm nay” cho đến tận “mai này con ta lớn lên”. Đồng thời những chất liệu trên cũng gợi ra chiều sâu văn hóa của dân tộc ngay từ thuở đất nước sơ khai. Khái niệm thứ hai, đất nước chính là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, trong cảm nhận của nhà thơ đất nước là nơi anh đến trường, là bến nước, bờ sông là nơi anh và em cũng như bao đôi lứa cùng hò hẹn yêu nhau, nhưng đất nước không chỉ là những nơi riêng tư như vậy mà nó còn là nơi “dân mình đoàn tụ” là nơi sinh hoạt đời sống cộng đồng:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”

Từ những định nghĩa như vậy Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến định nghĩa trung tâm về đất nước đó là đất nước là dòng máu chảy trong huyết quản, là xương thịt cơ thể, là sự sống của con người vừa quý giá vừa thiêng liêng, vừa gần gũi thân thiết. Lời thơ như lời tâm sự, giảng giải đầy tâm huyết ấy đã lay động, thức tỉnh ý thức trách nhiệm của mỗi con người đối với đất nước. Có thể nói rằng ngay từ trong phần một của đoạn thơ đất nước tư tưởng “Đất Nước của nhân dân” đã hiện lên một cách khá rõ rệt là tiền đề cho các phần tiếp theo.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuCặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống MáiGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳmNgười học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút, non Nghiên.Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnhNhững người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà ĐiểmVà ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãiChẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông chaÔi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hoá núi sông ta…”

Trong phần thứ hai Nguyễn Khoa Điềm tập trung làm nổi bật tư tưởng “Đất Nước của nhân dân”, bằng những dẫn chứng nhân dân chính là người làm ra đất nước, vậy họ là những ai? Họ là những con người vô danh không tên không tuổi, được hiện lên một cách khái quát qua hình ảnh “những người vợ nhớ chồng”, “cặp vợ chồng yêu nhau”, “người học trò nghèo” và “những người dân nào”. Bên cạnh những hình ảnh con người vô danh ta còn thấy hiện lên rất nhiều con vật, ngựa của Thánh Gióng, 99 con voi của vua Hùng, con cóc, con gà quê hương, con rồng lặng im… Ta có thể thấy rằng bên cạnh những con vật trong thần thoại, truyền thuyết còn có những con vật gần gũi thân thiết cũng góp phần cấu thành nên đất nước, điều đó khẳng định rằng dù cao quý hay thân thuộc, tầm thường thì chỉ cần biết hóa thân mình vào đất nước thì đều đáng được trân trọng, yêu quý. Chính những ý thơ này đã đem đến sức lay động mạnh mẽ, làm thức dậy ý thức trách nhiệm vì đất nước của mỗi con người. Những địa danh được nhắc đến trong bài “núi Vọng Phu, hòn Trống Mái, núi Bút, non Nghiên, Hạ Long, Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm” trong dòng suy tưởng của Nguyễn Khoa Điềm nó không đơn thuần là những danh lam thắng cảnh thuần túy mà nó đã được cảm nhận như là sự hóa thân của cuộc đời, số phận, nỗi niềm của cha ông qua hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, ghi đậm dấu ấn tâm hồn, lối sống, cách suy nghĩ, phong tục tập quán cho đến quan niệm và tư tưởng sâu sắc của nhân dân:

“Em ơi emHãy nhìn rất xaVào bốn ngàn năm Đất NướcNăm tháng nào cũng người người lớp lớpCon gái, con trai bằng tuổi chúng taCần cù làm lụngKhi có giặc người con trai ra trậnNgười con gái trở về nuôi cái cùng conNgày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh”

Lời thơ rất ngọt ngào, tha thiết của Nguyễn Khoa Điềm đã khẳng định tiếp một điều rằng chính nhân dân lao động đã dựng xây và chiến đấu hết mình để bảo vệ đất nước. Đồng thời hai câu thơ “Nhiều người đã trở thành anh hùng/Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ” chính là lời ngợi ca nhân dân, ngợi ca những con người không tên không tuổi, những con người đã làm nên đất nước.

Không chỉ dựng xây đất nước nhân dân còn chính là người đã tạo ra truyền thống văn hóa lịch sử của đất nước:

“Những em biết khôngCó biết bao người con gái, con traiTrong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước”

“Bốn nghìn lớp người” chính là bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, biết bao nhiêu thế hệ nhân dân đã nối tiếp nhau để làm nên lịch sử đất nước. Đối với tác giả lịch sử đất nước không phải là sự thay đổi triều đại hay nối tiếp ngôi báu của các ông hoàng bà chúa mà lại là sự nối tiếp của các thế hệ nhân dân, chính những con người đã làm nên một đất nước vẹn toàn, vì vậy đất nước là của nhân dân chứ không ai khác. Họ là những con người đông đảo không tên không tuổi, không ai nhớ mặt đặt tên, sống giản dị, chết bình tâm, không do dự đắn đo, sẵn sàng hy sinh thân mình cho đất nước:

“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồngHọ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúiHọ truyền giọng điệu mình cho con tập nóiHọ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dânHọ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái tráiCó ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước Nhân dânĐất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại”

Cuối cùng nhân dân chính là người đã sáng tạo ra dòng chảy văn hóa cho cả một dân tộc, cho bốn năm văn hiến rực rỡ, kiêu hùng, rất nhiều giá trị vật chất và tinh thần đã được nhân dân giữ lại và truyền đạt cho đời sau, để con cháu phát huy và kế thừa những truyền thống tốt đẹp của cha ông xây dựng bao đời.

Kết lại, những điểm mới trong sáng tác của Nguyễn Khoa Điềm đều xuất phát từ tư tưởng tiến bộ trong thời kỳ Cách mạng ấy là tư tưởng đất nước của dân, do dân và vì dân là tư tưởng chủ đạo dẫn mạch cảm xúc đi xuyên suốt bài bằng những khám phá mới trên nhiều bình diện văn hóa, lịch sử, địa lý, nguồn gốc ra đời, quá trình hình thành phát triển đất nước. Đặc biệt với giọng thơ thủ thỉ tâm sự, ngọt ngào bộc lộ những cảm xúc chân thành, thiết tha phối hợp với cách sử dụng chất liệu văn hóa dân gian nhuần nhuyễn, sáng tạo đã làm cho bài thơ trở thành tác phẩm viết về đề tài đất nước tiêu biểu của văn học Việt Nam hiện đại.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 6

Thơ ca giai đoạn 1945 – 1975 có nhiều sáng tác đặc sắc về đề tài đất nước, ví dụ: Nguyễn Đình Thi (Đất nước), Xuân Diệu (Mũi Cà Mau), Chế Lan Viên (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?), Trần Vàng Sao (Bài thơ của một người yêu nước mình)… Các sáng tác kể trên đều có sức sống lâu bền qua nhiều thế hệ những người yêu thơ bởi những đóng góp riêng độc đáo. Đoạn trích “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm cũng có một đóng góp riêng đặc sắc. Đó là ở cái nhìn mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử – địa lý – văn hoá…

Khác với nhiều tác giả đi trước và một số cây bút cùng thế hệ, thường tự tạo ra một khoảng cách để chiêm ngưỡng hình ảnh của Tổ quốc, với thái độ trân trọng đặc biệt, nên hay dùng những hình ảnh kì vĩ, mĩ lệ, mang tính biểu tượng để thể hiện cảm nhận của mình về đất nước, phần mở đầu đoạn thơ trích được Nguyễn Khoa Điềm diễn đạt tự nhiên và bình dị:

“Khi ta lớn lên đất nước đã có rồiĐất nước ở trong cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể.Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ănĐất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Đất nước thực ra rất thân thuộc, gần gũi. Có thể cảm nhận được về đất nước qua những gì hết sức đơn sơ: câu chuyện cổ tích mẹ kể, miếng trầu của bà, ngôi nhà mình ở, hạt gạo ta ăn…

Giọng thơ suy tư thường vẫn hay đặt ra các câu hỏi và tự trả lời. Đoạn thơ mở đầu cũng có thể được coi là những câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước có từ bao giờ? Và lịch sử lâu đời của đất nước ta được cắt nghĩa không bằng sự nối tiếp của các triều đại hay các sự kiện lịch sử mà bằng những câu thơ gợi nhớ đến các truyền thuyết xa xưa: truyện Trầu cau, truyền thuyết Thánh Gióng, nền văn minh sông Hồng cùng những phong tục, tập quán riêng biệt có từ lâu đời… đó chính là đất nước được cảm nhận ở chiều sâu của văn hoá và lịch sử.

Đọc thêm:  5 địa điểm nhảy dù đáng trải nghiệm, nhất định phải thử

Tiếp theo, trong mạch thơ chính luận – trữ tình, là câu trả lời cho câu hỏi: Đất nước là gì? Đó là sự cảm nhận về đất nước trong sự thống nhất, hài hoà các phương diện địa lí và lịch sử, không gian và thời gian. Xuất thân từ một thế hệ trí thức trẻ mà những tri thức văn hoá được trang bị còn tươi rói, tác giả chia tách ý niệm đất nước thành hai yếu tố đất và nước để cảm nhận và suy tư sâu hơn không dừng lại ở bình diện khái niệm mà ở một bình diện khác sâu hơn, thể hiện một cái nhìn về hình tượng đất nước thiêng liêng bằng quan niệm mới của tuổi trẻ nên vừa mang tính cá thể vừa hết sức táo bạo:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi hai ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm…”

Trong mắt của người trẻ tuổi, đất nước này là cái cõi đầy thơ mộng với bao kỷ niệm dịu ngọt của tình yêu. Đất nước, cái không gian tuyệt diệu của tình yêu không chỉ của thế hệ hiện tại mà còn là của bao thế hệ đã đi qua hướng mãi suy tư của ta tới cội nguồn, tới: “Những ai đã khuất/Những ai bây giờ/Yêu nhau và sinh con đẻ cái/Gánh vác phần người đi trước để lại/Dặn dò con cháu chuyện mai sau…” Cái không gian của tình yêu ấy, theo dòng suy cảm của tác giả mà mở rộng các chiều kích, rồi hướng tới một cái nhìn toàn vẹn và nhiều chiều về đất nước trong chiều dài của lịch sử và chiều rộng của địa lý, chiều sâu của văn hoá và phong tục… Từ đó, mạch thơ hướng vào những suy ngẫm về trách nhiệm của thế hệ mình, một thế hệ tự ý thức về bổn phận của chính mình với đất nước:

“Em ơi, Đất nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời…”

Đây là những lời tâm sự nhiều hơn là kêu gọi, giáo huấn. Vì thế, sức truyền cảm của ý thơ vẫn rất mạnh.

Ở phần sau của đoạn trích, tác giả nhấn mạnh quan niệm “Đất Nước của nhân dân”. Thực ra, đây cũng là tư tưởng cốt lõi của cả đoạn trích, nhưng ở phần sau thì được triển khai trên hai hướng vừa khơi sâu vừa phát hiện nhiều ý nghĩa mới. Những phát hiện thú vị và độc đáo của tác giả về đất nước trên các phương diện: địa lý, văn hoá, phong tục… muôn vàn những vẻ đẹp, theo tác giả, đều là kết tinh của bao công sức và khát vọng của nhân dân, của những người bình thường, vô danh. Đây là lí do vì sao khi nói về bốn nghìn năm lịch sử của đất nước, nhà thơ không điểm tên các triều đại cùng bao nhân vật anh hùng trong sử sách mà nhấn mạnh đến lớp lớp những người vô danh:

“Có biết bao người con gái con traiTrong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổiHọ đã sống và chếtGiản dị và bình tâmKhông ai nhớ mặt đặt tênNhưng họ đã làm ra Đất Nước…”

Tóm lại, đoạn thơ là cảm nhận mới mẻ của tác giả về đất nước qua những vẻ đẹp được phát hiện ở chiều sâu trên nhiều bình diện: lịch sử – địa lý – văn hoá…

Với một cái nhìn giàu suy tư, tư tưởng đất nước của nhân dân, do nhân dân làm ra được tô đậm là cảm hứng chủ đạo. Tất cả được biểu đạt bằng một giọng thơ trữ tình – chính luận sâu lắng, thiết tha. Nghệ thuật sử dụng nhuần nhị và sáng tạo các chất liệu văn hoá và văn học dân gian đem vào câu thơ hiện đại tăng thêm sức hấp dẫn của đoạn thơ.

Nét mới trong cảm nhận về Đất nước – Mẫu 7

Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của của nền văn học Việt Nam. Một trong những sáng tác tiêu biểu là trường ca “Mặt đường khát vọng” – nổi bật là đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V đã thể hiện những nét mới trong cảm nhận về đất nước.

Chủ đề đất nước là chủ đề xuyên suốt văn học, là chủ đề bao trùm thơ ca hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong bản đại hợp xướng của thơ ca viết về đất nước thì chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là khúc nhạc gây được ấn tượng riêng với giai điệu vừa hào hứng vừa sâu lắng vừa tràn đầy tình cảm vừa giàu chất trí tuệ. Bài thơ không những thể hiện lòng yêu nước mà còn là sự nhận thức sự định nghĩa về đất nước.

Nét đặc sắc trong cảm nhận về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước được cảm nhận trên nhiều bình diện, từ thời gian lịch sử đến không gian địa lý và bề dày văn hoá. Tất cả đều được dọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”.

Trước hết đất nước được cảm nhận một cách toàn diện, trên nhiều phương diện trong sự gắn bó với mỗi cá nhân và cả cộng đồng với cuộc sống bình thường của mỗi con người. Đất nước xa xôi mà không xa vời. Đất nước gần gũi quen thuộc trong cuộc sống hàng ngày.

Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không phải là cái gì trừu tượng mà là những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Đất nước có trong câu chuyện “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể” – đất nước có trong phong tục ăn trầu của bà, đất nước gần gũi thân thiết trong hạt gạo một nắng hai sương, đất nước có trong cái kèo cái cột, có dưới mỗi mái nhà ta ở. Đất nước đó là tình mẹ tình cha:

“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặnCái kèo cái cột thành tênHạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàngĐất Nước có từ ngày đó”

Cách cảm nhận trên của Nguyễn Khoa Điềm đã đưa đất nước từ một khái niệm thiêng liêng nhưng cũng vô cùng bình dị gần gũi. Đất nước xa xôi vì khi ta lớn lên đất nước đã có rồi nhưng đất nước không hề xa vời vì đất nước có trong cuộc sống hàng ngày mà ai cũng có thể cảm nhận được.

Nhà thơ cảm nhận đất nước trong chiều rộng “không gian mênh mông” chiều dài “thời gian đằng đẵng” và chiều sâu văn hoá. Tất cả đều thật gần gũi thân thiết với mỗi con người.

Không gian địa lý của đất nước là biên giới lãnh thổ, là núi, sông, rừng, biển:

“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc.Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Không gian đất nước còn là không gian của mỗi cá nhân trong cuộc sống hàng ngày, thật bình dị mà cũng thiêng liêng:

“Đất là nơi anh đến trườngNước là nơi em tắmĐất Nước là nơi ta hò hẹnĐất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn tay trong nỗi nhớ thầm”

Đất nước ghi dấu những kỷ niệm riêng tư đẹp đẽ của mỗi con người. Ở những câu thơ trên tác giả sử dụng biện pháp nghệ thuật có thể coi là chơi chữ. Khi tách đất nước thành hai thành tố: “Đất” và “Nước”. Đất nước là từ ghép thì là khái niệm chỉ tổ quốc, một khái niệm trừu tượng. Khi tách “đất nước” thành hai từ đơn thì “đất” và “nước” chỉ cái khái niệm cụ thể. Biện pháp nghệ thuật chiết tự này có tác dụng đưa đất nước từ một khái niệm trừu tượng trở thành những gì gần gũi cụ thể thân thiết nhất. Mỗi con người gắn bó với Tổ quốc mình cũng thiêng liêng bình dị như gắn bó máu thịt không thể thiếu.

Nói về thời gian lịch sử, tác giả gợi lại những thần thoại những truyền thuyết về dân tộc, những thần thoại, những truyền thuyết này là rất quen thuộc với mỗi người Việt Nam. Như truyền thuyết Lạc Long Âu Cơ “đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng” truyền thuyết vua Hùng với ngày giỗ Tổ, truyền thuyết Thánh Gióng với vó ngựa sắt đi qua “trăm ao đầm còn để lại”. Việc gợi lại những huyền tích những huyền sử này có tác dụng thể hiện thời gian “đằng đẵng” trong suốt chiều dài lịch sử đồng thòi gợi lên niềm tự hào sâu xa ở mỗi người Việt Nam. Ai là người Việt Nam mà không nhớ về cội nguồn dân tộc.

Nói về nền văn hoá đất nước, Nguyễn Khoa Điềm cũng định nghĩa thật giản dị. Văn hoá đó là phong tục tập quán quen thuộc đối với mỗi người dân. Trên thế giới cho đến hôm nay đã có trên bốn nghìn năm định nghĩa về văn hoá, bao nhà tư tưởng bao triết gia, bao nhà văn hoá cố gắng đi tìm một định nghĩa chính xác nhất về văn hoá. Nguyễn Khoa Điềm góp thêm một định nghĩa giản dị mà sâu xa. Văn hoá ấy là phong tục tập quán thành thói quen thành nếp sống của mỗi con người. Văn hoá ấy là phong tục ăn trầu của bà, là phong tục búi tóc sau đầu của mẹ.

Từ những cảm nhận trên tác giả đi đến một mục đích quan trọng nhất: đất nước có trong mỗi người vì vậy mỗi cá nhân phải có trách nhiệm đối với đất nước.

Điều đặc sắc nhất là tác giả cảm nhận đất nước không chỉ như cái khách thể ở ngoài con người mà còn cái chủ thể có trong mỗi con người, đã trở thành máu thịt thành cuộc đời của mỗi con người:

“Em ơi emĐất Nước là máu xương của mìnhPhải biết gắn bó và san sẻPhải biết hoá thân cho dáng hình xứ sởLàm nên Đất Nước muôn đời”

Chính vì xác định được trong mỗi con người có một phần đất nước nên nhà thơ xác định mồi cá nhân phải biết hy sinh cho đất nước cho dân tộc. Cách cảm nhận của Nguyễn Khoa Điềm rất gần với cách cảm nhận của Chế Lan Viên khi viết về đất nước:

“Ôi Tổ quốc ta yêu như máu thịtNhư mẹ cha ta, như vợ như chồngÔi! Tổ quốc nếu cần ta chếtCho mỗi ngôi nhà ngọn núi con sông”

Điểm đặc sắc nhất trong chương “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ đã cảm nhận đất nước trong sự đối chiếu bởi tư tưởng chủ đạo Đất Nước của Nhân dân.

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” chính là sợi chỉ đỏ xuyên suốt toàn bộ chương Đất Nước đã từng được thể hiện trong phần đầu nhưng tập trung kết tinh là ở giai đoạn hai của chương V này.

Để viết về Đất Nước của Nhân dân, tác giả đã sử dụng ngay những sáng tạo của nhân dân. Để thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân thì không gì tốt hơn là dùng ngay lời ăn tiếng nói của nhân dân. Chính vì vậy mà ở đoạn này tác giả đã sử dụng rộng rãi những chất liệu của văn hoá dân gian. Nhà thơ gọi lại những thần thoại truyền thuyết về Lạc Long Âu Cơ, Hùng Vương, về truyện cổ tích trầu cau, truyện cổ tích nàng Vọng Phu chờ chồng, truyền, thuyết Thánh Gióng. Tác giả cũng tạo dựng ý thơ từ những câu ca dao tục ngữ, câu thơ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn” có nguồn gốc từ câu ca dao: “Tay nâng chén muối đĩa gừng, gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Còn câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi” có xuất xứ từ câu ca dao: “yêu em từ thủa trong nôi em nằm em khóc anh ngồi anh ru”. Việc sử dụng rộng rãi chất liệu dân gian để nói về đất nước không đơn thuần là thủ pháp nghệ thuật mà còn là sự thấm nhuần sâu sắc tư tưởng Đất Nước của Nhân dân.

Không gian địa lý của đất nước, thời gian lịch sử của dân tộc và truyền thống văn hoá vật chất, tinh thần đều được cảm nhận trong sự gắn bó với nhân dân do nhân dân sáng tạo.

Trở lại với không gian địa lý của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm có cách cảm nhận kỳ thú khi nói về danh lam thắng cảnh của đất nước. Những danh thắng đó đâu chỉ là tặng vật của tạo hoá ban cho mà còn là hình hài còn là số phận là ước vọng của bao cuộc đời bình dị chung đúc lên. Nếu không có bao người vợ chờ chồng qua những cuộc chiến tranh, những cuộc ly tán thì làm sao có sự tích nàng vọng phu trên cả 3 miền đất nước. Nếu không có công lao gian nan dựng nước của Vua Hùng thì làm sao có sự tích 99 con voi quay về đất tổ. Nếu không có chiến công của Thánh Gióng đuổi giặc Ân thì làm sao có sự tích về những ao đầm mà vó ngựa còn để lại. Và trên đất nước này bao đôi lứa yêu nhau bao cặp vợ chồng chung thuỷ đã lại hình thành hòn Trống Mái thuỷ chung và núi Bút non Nghiên hay là bao quyết tâm bao ước vọng của những người học trò nghèo đã hóa thân thành hình hài sông núi. Từ cách cảm nhận này Nguyễn Khoa Điềm đã viết những câu thơ trữ tình chính luận về đất nước:

“Những người vợ nhớ chồng góp cho Đất Nước những núi Vọng PhuGót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lạiChín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng VươngNhững con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”

Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên”. Không chỉ ở nhân dân hoá thân vào đất nước mà nhân dân còn lưu lại trong những tên đất tên làng. Bao địa danh trên đất nước này mang những tên người nôm na bình bị, những “Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”. Nhân dân đã hóa thân vào đất nước:

“Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấyNhững cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

Với Nguyễn Khoa Điềm thì lịch sử dân tộc cũng do nhân dân sáng tạo ra. Viết về đất nước tác giả không điểm lại những triều đại, những anh hùng nổi danh trong lịch sử mà ghi nhận công lao của những anh hùng vô danh. Những anh hùng vô danh ấy chính là nhân dân vô tận. Họ là những con người sống giản dị và bình tâm trong thầm lặng họ hi sinh cho đất nước. Họ là những con người không ai nhớ mặt đặt tên nhưng chính họ là người “làm ra Đất Nước”.

Trở lại với nền văn hoá dân tộc, Nguyễn Khoa Điềm khẳng định chính nhân dân là người sáng tạo những giá trị vật chất và tinh thần.

Nhân dân truyền lại cho các thế hệ sau những giá trị vật chất từ hạt lúa đến ngọn lửa, truyền lại cho cháu con những giá trị tinh thần: Họ để lại cho thế hệ sau ngôn ngữ tiếng nói: “truyền lại giọng mình cho con tập nói”, họ để lại những tên đất tên làng: “gánh theo tên đất tên làng trong những chuyến di dân”.

Để khẳng định vai trò sáng tạo văn hoá của nhân dân Nguyễn Khoa Điềm trở về với kho tàng văn học dân gian với ca dao tục ngữ. Vì chính ở đây là nơi lưu giữ những sáng tạo tinh thần văn hoá của nhân dân là nơi truyền giữ tâm hồn dân tộc. Đi vào kho tàng văn học dân gian tác giả khẳng định nhân dân chính là người sáng tạo, phát huy hai truyền thống lớn là truyền thống yêu nước bất khuất và nhân ái nghĩa tình. Truyền thống nhân ái nghĩa tình với câu thơ: “Dạy anh biết yêu em từ thủa trong nôi”, “Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội” (có nguồn gốc từ câu ca dao: “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”). Truyền thống yêu nước bất khuất với câu thơ: “Biết trồng tre đợi ngày thành gậy. Đi trả thù mà không sợ dài lâu” có xuất xứ từ câu ca dao (Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre nên gậy gặp đâu đánh què).

Từ sự cảm nhận trên Nguyễn Khoa Điềm đi đến kết luận nhân dân là người sáng tạo ra đất nước trên tất cả các bình diện nhân dân là người xây dựng đất nước và cũng là người bảo vệ phát triển đất nước:

“Có ngoại xâm thì chống ngoại xâmCó nội thù thì vùng lên đánh bạiĐể Đất Nước này là Đất Nước nhân dân”

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” đã từng xuất hiện trong truyền thống lịch sử. Ở “Bình Ngô đại cáo”, Nguyễn Trãi đã khẳng định vai trò to lớn của nhân dân trong cuộc kháng chiến chống Minh:

“Nhân dân bốn cõi một nhàDựng cần trúc ngọn cờ phấp phới”

Với Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng một tượng đài bất tử về những người anh hùng vô danh, về những người nông dân nghĩa sĩ. Phan Bội Châu đã khẳng định sự gắn bó giữa nhân dân với đất nước:

“Dân là dân nướcNước là nước dân”

Ở bài thơ “Đất nước”, Nguyễn Đình Thi khẳng định cụ thể hơn đất nước gắn bó với người anh hùng áo vải:

“Ôm đất nước những người áo vảiĐã đứng lên thành những anh hùng”

Những người dân bình thường giản dị, những người lao động chất phác thật thà. Khi cầm súng đứng lên bảo vệ Tổ quốc thì chính họ là những anh hùng…

Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” từng manh nha (xuất hiện) trong truyền thống lịch sử được Nguyễn Khoa Điềm để nâng lên một tầm cao mới trong thời đại chống Mỹ. “Đất Nước của Nhân dân” được cảm nhận một cách toàn diện cả trong chiều dài thời gian, chiều rộng không gian và chiều sâu văn hoá. Nhà thơ không những khẳng định sự gắn bó với nhân dân mà còn khẳng định vai trò to lớn của nhân dân.

Trong kho tàng văn học dân gian đã có nhiều bài thơ hay viết về chủ đề Tổ quốc. Có khi lòng yêu nước thể hiện qua sự gắn bó với mảnh đất quê hương như “Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm. Có khi lại là sự gắn bó quê hương cách mạng như Việt Bắc của Tố Hữu. Ở “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp về chủ đề Tổ quốc được chi phối bởi ý thức, niềm tự hào làm chủ đất nước. Nguyễn Khoa Điềm cũng cảm nhận đất nước về nhiều phương diện, chương “Đất nước” cũng là cảm hứng thi ca mang tính chất tổng hợp nhưng lại rọi chiếu bởi tư tưởng chủ đạo là tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Đây là đóng góp riêng và là đóng góp không nhỏ của Nguyễn Khoa Điềm trong dòng thơ viết về đất nước.

……………

Tải file tài liệu để xem thêm bài văn mẫu nét mới trong cảm nhận về Đất nước

5/5 - (8623 bình chọn)
Cảm ơn các bạn đã đồng hành và theo dõi https://th-thule-badinh-hanoi.edu.vn/ !!!!. Hãy cho chúng tớ 1 like để tiếp tục phát triển nhều kiến thức mới nhất cho bạn đọc nhé !!!

Huyền Trân

Dương Huyền Trân có trình độ chuyên môn cao về giáo dục và hiện tại đang đảm nhận vị trí chuyên viên quản trị nội dung tại website: https://th-thule-badinh-hanoi.edu.vn/ . Để hoàn thành thật tốt công việc mà mình đang đảm nhận thì tôi phải nghiên cứu và phân tích quá trình hoạt động phát triển các dịch vụ, sản phẩm của từng ngành khác nhau.

Bài viết liên quan

Để lại một bình luận

Email của bạn sẽ không được hiển thị công khai. Các trường bắt buộc được đánh dấu *

Back to top button