Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta Soạn văn 11 tập 2 tuần 29 (trang 84)
Đoạn trích Về luân lí xã hội của nước ta đã vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước.
Hôm nay, th-thule-badinh-hanoi.edu.vn sẽ cung cấp tài liệu Soạn văn 11: Về luân lí xã hội ở nước ta. Mời các bạn học sinh cùng tham khảo.
Tác phẩm Về luân lí xã hội ở nước ta
1. Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến, so với quốc gia luân lí thì người mình còn dốt nát hơn nhiều. Một tiếng bè bạn không thể thay cho xã hội lí luận được, cho nên không cần cắt nghĩa làm gì.
Tuy trong sách Nho có câu: “Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ”. Hai chữ thiên hạ tức là xã hội. Ngày nay những kẻ học ra làm quan cũng võ vẽ nhắc đến hai chữ đó nhưng chỉ làm trò cười cho kẻ thức giả đấy thôi. Cái chủ ý bình thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi.
2. Cái xã hội chủ nghĩa bên Âu châu rất thịnh hành như thế, đã phóng đại ra như thế, thế mà người bên ta thì điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì. Thương hại thay! Người nước ta không hiểu cái nghĩa vụ loại người ăn ở với loài người đã đành, đến cái nghĩa vụ mỗi người trong nước cũng chưa hiểu gì cả. Bên Pháp, mỗi khi người có quyền thế, hoặc chính phủ, lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay của một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng kỳ cho đến được công bình mới nghe.
Vì sao mà người ta làm được như thế? Là vì người ta có đoàn thể, có công đứa biết giữ lợi chung vậy. Họ cũng nghĩ rằng nếu nay để cho người có quyền lực đè nén người này thì mai ắt cũng lấy quyền lực ấy để đè nén mình, cho nên phải hiệp nhau lại phòng ngừa trước. Người ta có ăn học biết xét kĩ thấy xa như thế, còn người nước mình thì sao? Người nước mình thì phải ai tai nấy, ai chết mặc ai! Đi đường gặp người bị tai nạn, gặp người yếu bị kẻ mạnh bắt nạt cũng làm ngơ mắt đi qua, hình như người bị nạn khốn ấy không can thiệp gì đến mình.
Đã biết sống thì phải bênh vực nhau, ông cha mình ngày xưa cũng đã hiểu đến. Cho nên mới có câu: “Không ai bẻ đũa cả nắm” và “Nhiều tay làm nên bộp”. Thế thì dân tộc Việt Nam này hồi cổ sơ cũng biết đoàn thể, biết công ích, cũng góp gió làm bão, giụm cây làm rừng, không đến nỗi trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì như ngày nay.
Dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là bởi ba bốn trăm năm trở về đây bọn học trò trong nước mắc ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối nịnh hót, chỉ biết có vua mà chẳng biết có dân. Bọn ấy muốn giữ túi tham mình được đầy mãi, địa vị của mình được vững mãi, bèn kiếm cách thiết pháp luật, phá tan tành đoàn thể của quốc dân.
Dẫu trôi nổi, dẫu cực khổ thế nào mặc lòng, miễn là có kẻ mang đai đội mũ ngất ngưởng ngồi trên, có kẻ áo rộng khăn đen lúc nhúc lạy dưới, trăm nghìn năm như thế cũng xong! Dân khôn mà chi! Dân ngu mà chi! Dân lợi mà chi! Dân hại mà chi! Dân càng nô lệ, ngôi vua càng lâu dài, bọn quan lại càng phú quý! Chẳng những thế mà thôi, “một người làm quan một nhà có phước”, dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét, dầu rút tỉa của dân thể nào cũng không ai phẩm bình; dầu lấy lúa của dân mua vườn sắm ruộng, xây nhà làm cửa cũng không ai chê bai. Người ngoài thì khen đắc thời, người nhà thì dựa hơi quan, khiến những kẻ tham mồi phú quý không đua chen vào đám quan trường sao được. Quan lại đời xưa đời nay của ta là thế đấy! Luân lý của bọn thượng lưu – tôi không gọi bọn ấy là thượng lưu, tôi chỉ mượn hai chữ thượng lưu nói cho an hem dễ hiểu mà thôi – ở nước ta là thế đấy!
Ngày xưa thì bọn ấy là bọn Nho học đã đỗ được cái bằng cử nhân, tiến sĩ, ngày nay thì bọn ấy là bọn Tây học đã được cái chức ký lục thông ngôn, có khi bồi bếp dựa vào thân thế của chủ cũng ra làm quan nữa. Những bọn quan lại đã nói ở trên này chỉ còn một tiếng chỉ đúng hơn là lũ ăn cướp có giấy phép vậy.
Những kẻ ở vườn thấy quan sang, quan quyền cũng bén mùi làm quan. Nào lo cho quan, nào lót cho lại, nào chạy ngược chạy xuôi, dầu cố ruộng dầu bán trâu cũng vui lòng, chỉ cần được lấy một chức xã trưởng hoặc cai tổng, đặng ngồi trên, đặng ăn trước, đặng hống hách thì mới hôi. Những kẻ như thế mà vẫn không ai khen chê, không ai khinh bỉ, thật cũng lạ thay! Thương ôi! Làng có một trăm dân mà người này đối với kẻ kia đều ngó theo sức mạnh, không có một chút gì gọi là đạo đức là luân lí cả. Đó là nói người trong một làng đối với nhau, chí như đối với dân kiều cư kí ngụ thì lại càng hà khắc hơn nữa. Ôi! Một dân tộc như thế thì tư tưởng cách mạng nảy nở trong óc chúng làm sao được! Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có là cũng vì thế.
3. Nay muốn một ngày kia nước Việt Nam được tự do độc lập thì trước hết dân Việt Nam phải có đoàn thể đã. Mà muốn có đoàn thể thì có chí hay hơn là truyền bá xã hội chủ nghĩa trong dân Việt Nam này.
Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta – Mẫu 1
Soạn văn Về luân lí xã hội ở nước ta chi tiết
I. Tác giả
– Phan Châu Trinh (1872 – 1926), hiệu là Tây Hồ, biệt hiệu là Hi Mã.
– Quê ở làng Tây Lộc, huyện Hà Đông (nay là thôn Tây Hồ, xã Tam Phước, thị xã Tam Kỳ, tỉnh Quảng Nam).
– Ông xuất thân trong một gia đình Nho học, đỗ Phó bảng và được bổ dụng làm quan nhưng chỉ trong một thời gian ngắn đã từ bỏ để chuyên tâm vào sự nghiệp cứu nước.
– Trong những năm đầu của thế kỷ XX, Phan Châu Trinh là người đưa ra khái niệm dân chủ sớm nhất ở Việt Nam.
– Ông là một trong những chí sĩ yêu nước nổi tiếng của cách mạng Việt Nam những năm đầu thế kỉ XX.
– Một số tác phẩm chính: Tây Hồ thi tập, Tỉnh quốc hồn ca, Xăng-tê thi tập, Giai nhân kỳ ngộ…
II. Tác phẩm
1. Hoàn cảnh sáng tác
– Về luân lí xã hội ở nước ta là một đoạn trích trong phần ba của bài Đạo đức và luân lí Đông Tây (gồm năm phần chính, kể cả nhập đề và kết luận) được Phan Châu Trinh diễn thuyết vào đêm 19 tháng 11 năm 1925 tại Hội Thanh niên ở Sài Gòn (nay là TP. Hồ Chí Minh).
– Tên bài do người biên soạn SGK đặt.
2. Bố cục
Gồm 3 phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “Cái chủ ý bìnhthiên hạ mất đi đã từ lâu rồi”: Khẳng định nước ta chưa hề có luân lí xã hội.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Xã hội chủ nghĩa trong nước Việt Nam ta không có cũng vì thế”: Bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta.
- Phần 3. Còn lại. Nêu ra giải pháp.
III. Đọc – hiểu văn bản
1. Khẳng định nước ta chưa hề có luân lí xã hội
– Lời phủ định cũng là khẳng định: “Xã hội luân lí thật trong nước ta tuyệt nhiên không ai biết đến”.
– Sự xuyên tạc vấn đề của nhiều người: Một tiếng bạn bè không thể thay cho xã hội luân lí được…
=> Cách vào đề trực tiếp, gây ấn tượng cho người đọc, người nghe.
2. Bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta
* So sánh bên châu Âu, bên Pháp với bên ta về những điều:
– Ý thức nghĩa vụ giữa người với người:
- Ở Pháp: “người có quyền thế, hoặc chính phủ lấy sức mạnh mà đè nén quyền lợi riêng của một người hay một hội nào, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng cho kì được đến công bằng mới nghe”. Còn ở ta thì “điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì”, ai gặp tai họa người đó tự chịu.
- Ở phương Tây: người ta có đoàn thể có công đức. Còn ở ta từ “hồi cổ sơ ông cha mình cũng đã biết đoàn thể, công ích nhưng mấy trăm năm gần đây trơ trọi, lơ láo, sợ sệt, ù lì không biết đoàn thể công ích là gì…”
* Nguyên nhân của tình trạng dân không biết đoàn thể, không trọng công ích là vì sự thối nát, phản động của đám quan trường:
- Ham quyền tước, ham bả vinh hoa
- Từ quan lớn đến quan bé, bọn nho học, bọn tây học tất cả đều là lũ ăn cướp có giấy phép…
- Dầu tham, dầu nhũng, dầu vơ vét rút tỉa của dân thế nào cũng không ai phê bình, không ai khen chê, không ai khinh bỉ. Ai cũng an phận, cam chịu, không dám đấu tranh…
3. Đưa ra những giải pháp
– Biết gây dựng đoàn thể để tụ bảo vệ quyền lợi và hỗ trợ nhau trong cuộc sống.
– Bỏ thói dựa dẫm vào quyền thế, chấm dứt tệ nạn mua danh bán tước.
– Truyền bá xã hội chủ nghĩa trong nhân dân…
Soạn văn Về luân lí xã hội ở nước ta ngắn gọn
I. Trả lời câu hỏi
Câu 1. Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì?
– Ý chính của từng phần:
- Phần 1. Từ đầu đến “thiên hạ mất đi đã từ lâu rồi”: Khẳng định nước ta chưa hề có luân lí xã hội.
- Phần 2. Tiếp theo đến “Việt Nam ta không có cũng vì thế”: Bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta.
- Phần 3. Còn lại. Nêu ra giải pháp.
– Chủ đề tư tưởng: Đoạn trích đã vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước.
Câu 2. Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội.
– Trực tiếp đưa ra thực trạng: nước ta chưa có luân lí xã hội (Xã hội luân lí thật… dốt nát hơn nhiều).
– Phủ nhận nội dung dễ nhầm lẫn với vấn đề: ghi nhận trong sách Nho có câu Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ nhưng khẳng định “chủ ý bình thiên hạ đã mất từ lâu”.
=> Cách vào đề trực tiếp, gây ấn tượng cho người đọc, người nghe.
Câu 3. Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về điều gì?
– Bên châu Âu, bên Pháp đã có nền luân lí xã hội:
- Bên châu Âu, cái XHCN rất thịnh hành và đã được phát triển rộng rãi.
- Bên Pháp, mỗi khi một người hay một hội nào bị đè nén quyền lợi riêng, thì người ta hoặc kêu nài, hoặc chống cự, hoặc thị oai, vận dụng được đến công bằng mới nghe.
– Bên ta chưa có nền luân lí xã hội: Dân chưa biết, chưa hiểu thế nào là luân lí xã hội. Họ “điềm nhiên như kẻ ngủ không biết gì là gì”, ai gặp tai họa người đó tự chịu.
Câu 4. Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích” là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao?
– Nguyên nhân:
- Từ quan lớn đến quan bé, bọn nho học, bọn tây học tất cả đều là lũ ăn cướp có giấy phép…
- Nhân dân đều an phận, cam chịu, không dám đấu tranh…
– Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế:
- Bọn học trò trong nước mắc bệnh ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối, nịnh hót, chỉ biết có nhà vua mà chẳng biết có dân.
- Nạn tham nhũng hoành hành, không ai bình phẩm, không ai chê bai. Quan lại thời xưa và nay là lũ ăn cướp có giấy phép.
Câu 5. Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
– Yếu tố nghị luận:
- Lập luận chặt chẽ, thuyết phục;
- Chứng cứ cụ thể, xác thực.
- Giọng văn độc đáo: lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, hùng hồn, lúc nhẹ nhàng.
– Yếu tố biểu cảm:
- Sử dụng nhiều hình ảnh: Không ai bẻ đũa cả nắm, Nhiều tay làm nên bộp…
- Kết hợp các kiểu câu: câu cảm thán; câu mở rộng thành phần, câu hỏi tu từ…
II. Luyện tập
Câu 1. Đọc lại Tiểu dẫn và hình dung hoàn cảnh sáng tác, tâm trạng của tác giả khi viết đoạn trích.
Tâm trạng của tác giả: vừa đau xót vừa mỉa mai, vừa cảm thông với nỗi thống khổ của dân vừa châm biếm bọn quan lại phong kiến và chính quyền thực dân chỉ là bọn sâu mọt hại dân, hại nước.
Câu 2. Có thể cảm nhận được gì về tấm lòng Phan Châu Trinh cũng như tầm nhìn của ông qua đoạn trích này?
– Phan Châu Trinh đã nhìn nhận được mặt hạn chế của đất nước ta.
– Tầm nhìn tiến bộ trong việc kết hợp truyền bá tư tưởng XHCN, gây dựng tinh thần đoàn thể, với sự nghiệp đấu tranh giành độc lập cho đất nước, cho dân tộc.
Câu 3. Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay còn có ý nghĩa thời sự không? Tại sao?
– Chủ trương gây dựng nền luân lí xã hội ở Việt Nam của Phan Châu Trinh đến nay còn có ý nghĩa thời sự.
– Nguyên nhân: Những mặt hạn chế mà Phan Châu Trinh đặt ra khi đưa vào xã hội hiện nay vẫn còn tồn tại (vấn đề tham nhũng, chủ nghĩa cá nhân với lợi ích quốc gia…)
Soạn bài Về luân lí xã hội ở nước ta – Mẫu 2
Câu 1. Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần. Hãy nêu ý chính của từng phần và xác lập mối liên hệ giữa chúng. Chủ đề tư tưởng của đoạn trích là gì?
– Cấu trúc đoạn trích gồm ba phần, nội dung chính của từng phần:
- Phần 1: Khẳng định nước ta chưa hề có luân lí xã hội.
- Phần 2: Bàn luận về luân lí xã hội trên cơ sở so sánh xã hội Pháp và xã hội nước ta.
- Phần 3: Nêu ra giải pháp.
=> Các phần có mối liên hệ chặt chẽ với nhau.
– Chủ đề tư tưởng của đoạn trích: Vạch trần thực trạng đen tối của xã hội, đề cao tư tưởng đoàn thể vì sự tiến bộ, hướng về một ngày mai tươi sáng của đất nước.
Câu 2. Trong phần 1 của đoạn trích, tác giả đã chọn cách vào đề như thế nào để tránh sự hiểu lầm của người nghe về khái niệm luân lí xã hội.
– Trực tiếp đưa ra thực trạng: nước ta chưa có luân lí xã hội (Xã hội luân lí thật… dốt nát hơn nhiều).
– Phủ nhận nội dung dễ nhầm lẫn với vấn đề: ghi nhận trong sách Nho có câu Sửa nhà trị nước rồi mới yên thiên hạ nhưng khẳng định “chủ ý bình thiên hạ đã mất từ lâu”.
Câu 3. Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về điều gì?
Trong phần 2, ở hai đoạn đầu, tác giả đã so sánh “bên Âu châu”, “bên Pháp” với “bên ta” về việc có hay chưa có nền luân lí xã hội.
Câu 4. Ở các đoạn sau của phần 2, tác giả chỉ ra nguyên nhân của tình trạng “dân không biết đoàn thể, không trọng công ích” là gì? Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế ra sao?
– Nguyên nhân:
- Từ quan lớn đến quan bé, bọn nho học, bọn tây học tất cả đều là lũ ăn cướp có giấy phép…
- Nhân dân đều an phận, cam chịu, không dám đấu tranh…
– Tác giả đã đả kích chế độ vua quan chuyên chế:
- Bọn học trò trong nước mắc bệnh ham quyền tước, ham bả vinh hoa của các triều vua mà sinh ra giả dối, nịnh hót, chỉ biết có nhà vua mà chẳng biết có dân.
- Nạn tham nhũng hoành hành, không ai bình phẩm, không ai chê bai. Quan lại thời xưa và nay là lũ ăn cướp có giấy phép.
Câu 5. Nhận xét về cách kết hợp yếu tố biểu cảm với yếu tố nghị luận trong đoạn trích.
– Yếu tố nghị luận: Lập luận chặt chẽ, lí lẽ và bằng chứng thuyết phục; Giọng điệu linh hoạt lúc từ tốn, mềm mỏng; lúc kiên quyết, đanh thép; lúc mạnh mẽ, hùng hồn, lúc nhẹ nhàng.
– Yếu tố biểu cảm: Hình ảnh, từ ngữ mang tính biểu cảm cao (Không ai bẻ đũa cả nắm, Nhiều tay làm nên bộp)